Nông dân-phẩm chất làm nên lịch sử và tương lai, điểm tựa vĩnh cửu cho mọi thăng trầm của đất nước
29/10/2025 08:39
Trong suốt chiều dài lịch sử, những giá trị cốt lõi của dân tộc Việt Nam đã được nhào nặn và bồi đắp từ bối cảnh nông thôn, với người nông dân là nhân vật trung tâm. Nông dân không chỉ làm nên hạt gạo nuôi sống đồng bào mà còn tạo nên nền tảng vững chắc, là điểm tựa vĩnh cửu cho mọi thăng trầm của đất nước.
Người nông dân-“Bệ phóng” cho dân tộc vươn tới khát vọng đổi mới
Nhìn một cách tổng thể, dân tộc Việt Nam về cơ bản là một dân tộc gắn liền với nông dân, nông thôn và nông nghiệp.
Chính bàn tay lao động của cộng đồng nông dân đầu tiên, những người đã tiến từ vùng núi xuống chinh phục châu thổ sông Hồng từ thuở bình minh lịch sử, là nền tảng để hình thành dân tộc, đất nước và nền văn minh Việt Nam.
Nền văn minh nông nghiệp lúa nước không chỉ tạo cơ sở kinh tế mà còn là bệ đỡ về mặt xã hội, văn hóa và chính trị, giúp hình thành nhà nước sớm và củng cố tinh thần đoàn kết dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử.
Nông dân-Vai trò sống còn của cách mạng và kháng chiến
Có thể nói, trong suốt 80 năm qua, từ khi đứng dưới ngọn cờ của Đảng, lực lượng nông dân đã có đóng góp vô cùng to lớn, mang ý nghĩa sống còn đối với dân tộc ta nói chung và sự nghiệp cách mạng nói riêng.



Tại buổi gặp mặt đoàn Nông dân Việt Nam xuất sắc, Nhà khoa học của Nhà nông 2025, ngày 14/10 vừa qua tại trụ sở Trung ương Đảng (Hà Nội), Tổng Bí thư Tô Lâm nồng nhiệt chào mừng và biểu dương 95 tấm gương nông dân và nhà khoa học tiêu biểu, đại diện cho hàng triệu nông dân, trí thức trên cả nước đã có những đóng góp xuất sắc trong lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, góp phần xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam phát triển toàn diện và bền vững. Ảnh: Phạm Hưng.
Tôi có thể đưa ra dẫn chứng rõ ràng nhất là ngay từ cao trào cách mạng 1930 – 1931, nông dân là lực lượng đông đảo và kiên trung nhất. Họ đã đứng dưới ngọn cờ của Đảng, như Tổng Bí thư Lê Duẩn nói điều đó đã “vung ra một nghị lực phi thường” để chứng tỏ năng lực giải phóng, hồi sinh của cả dân tộc.
Đến Cách mạng Tháng Tám, khi chúng ta giành chính quyền chủ yếu bằng những cuộc biểu tình chính trị, lực lượng nông dân cũng chiếm số đông. Trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập, giành chính quyền, nông dân đóng vai trò nòng cốt. Khu vực nông thôn là nơi đứng chân an toàn nhất của Cách mạng Việt Nam, từ núi rừng Pắc Bó đến ATK (viết tắt: An toàn khu) và ngoại thành Hà Nội…
Sau này, trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cộng đồng làng xã vẫn là chỗ dựa, là điểm tựa cho cuộc kháng chiến. Chân lý lịch sử “mất nước nhưng không mất làng” và nhờ không mất làng mà nước còn, là một quy luật bất biến. Cộng đồng nông dân chính là người đã nuôi sống dân tộc trong suốt những năm kháng chiến vô cùng gian khổ. Với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi vĩ đại.
Ngay cả khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu tan rã, sụp đổ, chính cộng đồng nông dân đã giúp dân tộc ta vượt qua thử thách hiểm nghèo nhất. Dù đất nước bắt đầu công cuộc Đổi mới với xuất phát điểm thấp, nhưng chính sự chuyển biến quan trọng nhất trong giới nông dân theo đường lối của Đảng và Nhà nước đã đưa Việt Nam từ bên bờ của nạn đói thành một trong ba cường quốc xuất khẩu gạo đứng hàng đầu thế giới. Đây chính là điểm tựa để Việt Nam có được tất cả những thành tựu khác sau này.

Đó là điều mà các thế hệ người Việt Nam không bao giờ được quên ơn giới nông dân. Bởi lẽ, cái đắng cay của người nông dân, những giọt mồ hôi đó đã xây nền đắp móng cho cơ đồ của chúng ta, như câu ca dao của ông bà vẫn dặn: “Ai ơi bưng bát cơm đầy dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Vai trò của người nông dân đã giúp dân tộc Việt Nam vượt qua những thách thức cực kỳ to lớn. Một vị Giáo sư nổi tiếng ở Mỹ, vốn là quan chức và nhân viên tình báo Pháp đã viết sách giải mã về dân tộc Việt Nam, gọi cuộc cách mạng Việt Nam là “cuộc cách mạng nông dân”, dân tộc Việt Nam là “dân tộc nông dân”. Ông nói rằng: “Người Pháp đã thất bại vì không hiểu được điều đó và người Mỹ sẽ thất bại nếu vẫn không hiểu được điều đó”.
Ban đầu khi tiếp cận với công trình của vị Giáo sư này khiến tôi hơi giận vì ông chỉ nhìn thấy nông dân mà bỏ qua công nhân, trí thức. Tuy nhiên, khi đọc kỹ, tôi nhận thấy ông có cái lý của mình. Bởi lẽ, nông dân cả hai miền Nam Bắc đã có những đóng góp rất vĩ đại và nếu không có họ thì chúng ta không thể thắng Mỹ.
Điều này buộc người Mỹ phải chiến đấu theo cách của người Việt Nam. Hàng triệu quân Mỹ với khí tài hiện đại đã sa vào “thiên la địa võng” của nông thôn, nông dân Việt Nam.
Những người nông dân kiên cường yêu nước bất khuất là điểm tựa vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng Việt Nam, thống nhất đất nước.
Tại miền Bắc, đóng góp của nông dân cũng vô cùng to lớn. Tôi tận mắt chứng kiến bà con nông dân quê mình ở Hải Dương đóng góp vào cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước như thế nào. Họ sẵn sàng nhịn đói, ăn bớt đi, nhưng thóc không bao giờ nộp thiếu cho hợp tác xã, thậm chí còn nộp vượt chỉ tiêu. Bà con nông dân luôn sẵn sàng che chở, nuôi dưỡng biết bao đơn vị bộ đội và thương binh đi qua làng.
Trong khi tất cả những người đàn ông có sức chiến đấu đều tình nguyện ra chiến trường thì những người ở lại đồng ruộng, như mẹ tôi, đã “chắc tay súng vững tay cày” để tiếp tục cuộc kháng chiến. Nông thôn đã trở thành “thành đồng lũy thép” không chỉ ở miền Nam mà cả miền Bắc. Dù đế quốc Mỹ đã tung ra phía Bắc hàng chục toán biệt kích nhưng không thể nào bắt rễ được, bởi cộng đồng nông dân miền Bắc đã siết chặt đội ngũ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chính vì vậy, dù Mỹ có dội bom B-52 hay đánh biệt kích, miền Bắc vẫn an toàn, không bao giờ bị lung lay, và là điểm tựa vững chắc cho toàn bộ cuộc kháng chiến.



Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì hội nghị đối thoại với nông dân Việt Nam lần thứ 6 năm 2024, tổ chức tại trụ sở Chính phủ (Hà Nội) ngày 31/12/2024. Ảnh: Lê Hiếu – Phạm Hưng – Viết Chung.
Đóng góp vô bờ bến của nông dân còn là sự hy sinh cao cả của những người con em họ. Tiêu biểu là những người mẹ Việt Nam anh hùng, như Mẹ Thứ với chín người con đi bộ đội. Phần lớn họ là nông dân và đã sẵn sàng dâng hiến cả chồng và con cho kháng chiến. Dù nghèo khổ, dù có thể nhiều người trong số họ mù chữ hoặc mới chỉ đọc thông viết thạo nhưng đã một lòng yêu nước và hy sinh tận tuỵ vì sự nghiệp cứu nước. Đó là điều mà cả dân tộc phải luôn biết ơn những người mẹ nông dân.
Những phẩm chất làm nên lịch sử và tương lai
Nếu dùng ba cụm từ để mô tả đóng góp và đặc điểm của giới nông dân trong cả thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tôi nghĩ đó là: Yêu nước, Đoàn kết, Anh dũng.
Yêu nước: Tình yêu nước của nông dân là bệ đỡ cho toàn bộ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Yêu nước với họ gắn liền với yêu nhà, yêu làng, yêu quê hương. Khu vực thành thị ra đời sau và vẫn mang nặng tính chất nông thôn, do đó chủ nghĩa yêu nước ở thành thị cũng là sự phóng đại, lan tỏa từ tình yêu làng, yêu nhà mà ra. Yêu nước chính là từ đặc trưng nhất của giới nông dân và của dân tộc Việt Nam.
Đoàn kết: Nông dân Việt Nam rất đoàn kết. Có đoàn kết mới xây dựng được làng xã vững bền suốt hàng nghìn năm, để làng làm điểm tựa cho nước. Có đoàn kết mới đắp đê, làm thủy lợi, trồng cây, trồng lúa… Có đoàn kết mới giữ làng, giữ nước, mới hy sinh đến mức tối đa để cứu nước, cứu làng.
Anh dũng: Người Mỹ đã mang vào Việt Nam tất cả khí tài hiện đại nhất, trừ bom nguyên tử, nhưng họ vẫn thất bại. Những chiến thắng có tính chất xoay chuyển tình thế trong hai cuộc chiến tranh đều bắt đầu từ khu vực nông thôn, nơi đội quân chủ yếu là nông dân: Chiến thắng Biên giới, Điện Biên Phủ với đội quân chủ yếu là nông dân, chiến thắng Đồng Khởi, Ấp Bắc, Khe Sanh… Từ những chiến thắng ở nông thôn đã làm điểm tựa, “chạy đà từ làng” này chính là tiền đề để các trận “chung kết” diễn ra và thắng lợi ở Hà Nội (Điện Biên Phủ trên không), Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử…

Trong thời kỳ Đổi mới, dân tộc ta và người nông dân vẫn cần ba phẩm chất vĩ đại ấy, nhưng chúng phải được khoác lên một diện mạo mới, với những nội hàm sâu sắc hơn để phù hợp với bối cảnh của hòa bình, hội nhập.
Yêu nước: Ngày nay chúng ta yêu nước cần phải một cách tỉnh táo. Yêu nước cũng có nghĩa là yêu môi trường sống, làm nông nghiệp sạch, không xả thải hay sản xuất nông sản bẩn…
Đoàn kết: Trước đây, đoàn kết được định nghĩa bằng việc có kẻ thù, phân biệt địch-ta. Nhưng trong thời kỳ Đổi mới, tinh thần đoàn kết trong giới nông dân lại là một thách thức sống còn. Những “chuyện làng Nhô” hay “mảnh đất lắm người nhiều ma” là minh chứng khi tinh thần đoàn kết truyền thống ở nông thôn đối mặt với nhiều thách thức.
Khi chuyển đổi từ khu vực thuần nông nghiệp sang công nghiệp hóa, nông thôn tồn tại vấn đề mới như đất đai, môi trường, thuế, khu ở và làm việc cho hàng vạn nông dân tại các khu công nghiệp. Có lúc, bài toán đoàn kết này chúng ta đã giải sai, không giải được vì không lắng nghe người dân.
Tuy nhiên, khi đại dịch Covid-19 bùng phát cho thấy tinh thần đoàn kết lại dâng cao. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, người nông dân đã chăm lo và che chở nhau, giúp những đứt gãy do đại dịch nhanh chóng liền mạch để hồi sinh. Đó là một bài học sâu sắc về sức mạnh của người nông dân trong bối cảnh mới.
Anh dũng: Dũng cảm trước đây là cầm giáo mác, súng đạn để xông pha trận mạc. Còn ngày nay, dũng cảm là có dám chuyển đổi sinh kế, dám thay đổi lề thói cũ hay không. Đó là một lựa chọn vô cùng khó khăn, bởi phải đối mặt với những câu chuyện như: “Cha truyền con nối”, “thuần phong mỹ tục”…
Trong việc “sắp xếp lại giang sơn” hiện nay, khi làng này, xã kia được sáp nhập, liệu nhân dân có đoàn kết chung sống để mở rộng không gian phát triển, tạo đà phát triển mới hay không? Đó là một bài toán mà chúng ta phải tin tưởng vào bà con nông dân, giúp họ vượt qua “khúc quanh gấp gáp” này để tạo nên thay đổi lớn.
Niềm tự hào của những người con nông dân
Khi ra nước ngoài, nhiều người vẫn tự hào về gốc gác nông dân của mình. Lý giải về điều này, tôi nhớ đến câu thơ của một người bạn: “Chỉ nhìn cái móng chân thôi/ Biết em đã lội từ thời Hùng Vương”.

Mô hình trồng lúa hữu cơ, giảm phát thải, sản xuất ra gạo sạch, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu đang được nông dân tiếp nhận, ứng dụng, nhân rộng trên nhiều cánh đồng lúa không dấu chân, mô hình trồng lúa công nghệ cao ở các tỉnh khu vực ĐBSCL. Ảnh: Huỳnh Xây.
Ai đã từng lội chân xuống đồng chiêm trũng, thì dù sau này có sơn phết, màu cáu vàng của đất vẫn hiện ra. Chân tôi cũng như vậy, tôi là một người nông dân. Vì lẽ đó, tôi thấy không công bằng khi một số đồng nghiệp trong và ngoài nước có xu hướng đổ tất cả những thói hư tật xấu của người Việt cho giới nông dân. Trong khi giới nào cũng có điểm hay và dở, con người luôn có ưu và khuyết điểm. Rất nhiều người, trong đó có tôi, vô cùng tự hào khi trưởng thành từ con em nông dân.
Tôi cho rằng, những người xuất thân từ nông thôn có những phẩm chất tốt đẹp, đặc biệt là khả năng chịu đựng gian khó vô cùng kiên cường và tinh thần cần cù, chăm chỉ, nhẫn nại vô bờ bến. Ngắm nhìn hình ảnh con trâu kéo cày, chúng ta thấy nó rất nhẫn lại. Và người nông dân cũng có đức tính ấy khi “một nắng hai sương” mới có miếng ăn. Khi họ làm công nhân hay nhà khoa học, những phẩm chất này giúp họ không ngại khổ, sẵn sàng vượt qua tất cả để vươn lên. Đó là lý do nhiều người nông dân đã thành đạt.
Những người đã thành đạt này đã tự nhận thức được nhược điểm của giới nông dân như: An phận, tùy tiện, đố kỵ, nhỏ nhen… Chỉ khi ý thức được những hạn chế đó và không tự ti về gốc gác, họ mới có thể thành công. Nếu tự sa vào mặc cảm nông dân thì tôi nghĩ họ không cách nào thành đạt được.
Cuối cùng, tôi muốn chia sẻ rằng, dù xuất thân từ nông dân, công nhân hay tầng lớp quý tộc, chúng ta đều mang một “ba lô di sản” rất nặng được truyền từ thế hệ đi trước. Trong đó có những thứ hữu ích như: Sợi lạt, cái kìm, cho đến những câu ca dao hay từ điển bách khoa của nhân loại…
Nếu coi đó là hành trang cần thiết và sử dụng đúng lúc, đúng nơi, nó sẽ vô cùng hữu ích. Nhưng nếu chỉ coi đó là gánh nặng mang theo với sự tự ti, chiếc “ba lô di sản” đó sẽ mãi nặng thêm và đến lúc nào đó sẽ đè bẹp chúng ta trên hành trình của mình.
Nguồn: Báo Dân Việt



